Iridi là một trong những nguyên tố hiếm nhất trên hành tinh chúng ta. Nó là một kim loại cứng, màu trắng bạc thuộc nhóm platin (PCM), là kim loại kháng ăn mòn tốt nhất, thậm chí là ở nhiệt độ cao khoảng 2000 °C.
5. Iridi (Iridium)
Iridi là một trong những nguyên tố hiếm nhất trên hành tinh chúng ta. Nó là một kim loại cứng, màu trắng bạc thuộc nhóm platin (PCM), là kim loại kháng ăn mòn tốt nhất, thậm chí là ở nhiệt độ cao khoảng 2000 °C.
Bugi iridi dùng cho xe hơi.
Iridi được Smithson Tennant phát hiện năm 1803 ở Anh (cùng năm ông phát hiện ra Osimi). Mặc dù là một trong những nguyên tố hiếm nhất trong vỏ Trái Đất, với sản lượng và tiêu thụ hàng năm chỉ 3 tấn, nó có nhiều ứng dụng trong các ngành công nghiệp đặc thù và trong y học. Với những tính chất đặc biệt, Iridi đóng vai trò quan trọng trong các ngành y khoa, điện tử, ô tô cũng như các mặt hàng tiêu dùng khác như bút bi, đồng hồ, và la bàn.
Chẳng hạn, với khả năng chống ăn mòn cao, Iridi được dùng trong các nồi nung làm tái kết tinh của các chất bán dẫn ở nhiệt độ cao, các điện cực trong sản xuất clo, và máy phát nhiệt điện đồng vị phóng xạ được dùng trong phi thuyền không người lái. Trong công nghiệp ôtô, iridi được dùng làm bugi đánh lửa.
Iridi phân bố chủ yếu ở Nam Phi, và giá trung bình của nó vào khoảng 13.500USD/kg.
4. Ruteni (Ruthenium)
Chiếc đồng hồ chế tác từ vàng và Ruteni trị giá 70.000USD.
Rutheni được nhà khoa học Nga là Karl Klaus phát hiện và cô lập năm 1844. Tên gọi có nguồn gốc từ Ruthenia, một từ La tinh để chỉ Rus, một khu vực lịch sử mà ngày nay là miền tây Nga, Ukraina, Belarus, một phần Slovakia và Ba Lan. Karl Klaus đặt tên cho nguyên tố như vậy để vinh danh quê hương ông.
Sau một quá trình hóa học phức tạp, kim loại này được phân lập và sử dụng cho nhiều mục đích khác nhau. Chẳng hạn như Ruteni được thêm vào với hợp kim của paladi và bạch kim để gia tăng độ cứng và tăng cường độ bền. Ruteni cũng được sử dụng phổ biến trong lĩnh vực điện tử. Năm 2009, giá của kim loại này vào khoảng 14.500USD/kg
Về mặt sinh học, Rutheni có thể làm sạm màu da người, và có thể là chất gây ung thư và tích lũy sinh học trong xương.
3. Vàng (Gold)
Các đồ vật dát vàng luôn thể hiện sự giàu có và có vẻ đẹp lộng lẫy.
Vàng là kim loại có màu vàng khi thành khối, nhưng khi cắt nhuyễn cũng có khi có màu đen, hồng ngọc hay tía; mềm, dễ uốn, dễ dát mỏng, và chiếu sáng.
Vàng kết hợp với các kim loại khác sẽ cho ra các hợp kim có màu khác nhau, như kết hợp với đồng cho màu đỏ hơn, hợp kim với sắt màu xanh lá, hợp kim với nhôm cho màu tía, với bạch kim cho màu trắng.
Từ xưa, vàng thường được xem là có lợi cho sức khoẻ, tuy nhiên, chỉ các muối và đồng vị của vàng mới có giá trị y tế. Khoa học ngày nay đã chứng minh tiêm vàng giúp làm giảm đau và sưng do thấp khớp và lao.
Các hợp kim vàng đã được sử dụng trong việc phục hồi nha khoa, đặc biệt là răng, như thân răng và cầu răng vĩnh viễn.
Ngoài ra vàng còn được sử dụng trong thực phẩm. Vàng lá, bông hay bụi được dùng trong một số thực phẩm cho người sành ăn như 1 thành phần trang trí. Tuy nhiên, bởi vàng kim loại trơ với mọi chất hoá học trong cơ thể, nó không mang lại hương vị cũng không có hiệu quả dinh dưỡng nào.
Vàng có thể được chế tạo thành sợi chỉ và được dùng trong thêu thùa.
Bởi vàng là một chất phản xạ tốt với bức xạ điện từ nên nó được dùng làm lớp phủ bảo vệ cho nhiều vệ tinh nhân tạo, trong các tấm bảo vệ nhiệt hồng ngoại và mũ của các nhà du hành vũ trụ. Nó cũng được dùng như lớp phản xạ trên một số đĩa CD công nghệ cao. McLaren sử dụng vàng lá trong khoang động cơ model F1 của mình.
Trong ngành kim hoàn ở Việt Nam, khối lượng của vàng được tính theo đơn vị là cây (lượng hay lạng) hoặc chỉ. Một cây vàng nặng 37,50 g.
Trên thị trường thế giới, vàng thường được đo lường theo hệ thống khối lượng troy, trong đó 1 troy ounce (ozt) tương đương 31,103 476 8 g.
Tuổi (hay hàm lượng) vàng được tính theo thang độ K (Karat). Một Karat tương đương 1/24 vàng nguyên chất. Vàng 99,99% tương đương với 24K. Khi ta nói tuổi vàng là 18K thì nó tương đương với hàm lượng vàng trong mẫu xấp xỉ 75%. Hiện nay ở Việt Nam người ta thường kinh doanh vàng dưới dạng các bánh, thỏi, nhẫn, dây chuyền, vòng, lắc với hàm lượng vàng chủ yếu là 99,999% hay 99,99%, 99,9%, 99% hay 98%.
2. Bạch kim (Platinum)
Chiếc xắc tay làm bằng bạch kim của nhà kim hoàn Ginza Tanaka có giá 1.422.122 Euro.
Bạch kim là một trong các kim loại quý hiếm nhất trên hành tinh, có màu trắng xám, khó bị ăn mòn, nhiệt độ nóng chảy lên tới 3215 độ F. Platin được dùng trong ngành trang sức, thiết bị thí nghiệm, các điện cực, thiết bị y tế và nha khoa, các thiết bị xúc tác hóa học, điều khiển mức độ phát thải khí trong xe hơi.
Bạch kim không gây dị ứng, do đó người có làn da nhạy cảm sẽ hoàn toàn không bị ảnh hưởng khi sử dụng những món đồ bạch kim.
Các đặc tính của bạch kim làm cho nhiều lĩnh vực công nghiệp phụ thuộc vào kim loại này. Một số sản phẩm đặc thù đều cần sử dụng bạch kim như: lọc hóa dầu, màn hình LCD, kính mắt, thuốc chống ung thư, sơn, ổ đĩa cứng, cáp sợi quang và chất nổ.
Người Nhật Bản rất ưa chuộng bạch kim và hàng năm họ tiêu thụ khoản 48% lượng trang sức bạch kim được sản xuất trên thế giới.
Hơn 1/3 lượng bạch kim sản xuất hàng năm cho các thị trường quốc tế được sử dụng trong các bộ kiểm soát khí thải độc hại của xe hơi.
Giá của kim loại vào khoảng gần 40.000USD/kg (vào năm 2009).
1. Rodi (Rhodium)
Chiếc bút máy có ngòi làm từ Rodi của công ty Edison Pen Co thể hiện đẳng cấp
của người sử hữu.
Rodi, được William Hyde Wollaston phát hiện sau khi ông tìm ra palladium trong năm 1803, là một kim loại trắng bạc, cứng nhưng dễ kéo sợi. Nó có hệ số phản xạ cao và có tính dẫn điện/dẫn nhiệt cao nhất trong tất cả các kim loại thuộc nhóm platin (PGM). Rodi không bị gỉ trong hầu như tất cả các dung dịch ngậm nước, bao gồm cả axít vô cơ ngay cả ở nhiệt độ cao.
Công dụng chính của Rodi là được sử dụng như một chất pha chế để tạo hợp kim với bạch kim và ở dạng hợp kim đó thì nó có một vài ứng dụng trong công nghiệp điện và công nghiệp chế tạo thủy tinh.
Ngoài việc đóng vai trò quan trọng trong ngành công nghiệp ô tô, Rodi còn được sử dụng để sản xuất kính, gương và đồ trang sức, tiếp điểm điện và động cơ tuốc bin máy bay.
Do nguồn cung cấp rất khan hiếm nên giá của nó rất cao, có thời điểm trong năm 2008 giá đạt trên 10.000USD/oz. Sản lượng Rodi hàng năm trên thế giới rất nhỏ, và chủ yếu đến từ Nam Phi.
Để so sánh, khoảng 2.500 tấn vàng được sản xuất mỗi năm, trong khi đó sản lượng Rodii hàng năm chỉ bằng khoảng 1% sản lượng vàng, và giá thì cao hơn gấp rưỡi giá vàng.